Bài thuốc bí truyền chữa bệnh trĩ của người H'Mông Tây Bắc

Trong thời gian qua Đề án Nghiên cứu và ứng dụng đông y trong điều trị bệnh trĩ nhận được rất nhiều thư của các bệnh nhân từ khắp mọi miền đất nước gửi về hỏi thông tin bệnh trĩ: nguyên nhân bị bệnh trĩ? Triệu chứng của bệnh trĩ? Chữa bệnh trĩ ở đâu tốt?Thuốc chữa bệnh trĩ hiệu quả nhất là gì?… và còn nhiều nội dung khác nữa. Để cung cấp thông tin cũng như giải đáp các thắc mắc của quý vị chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Lương dược Phúc Long – Phó chủ tịch Đề án Nghiên cứu và ứng dụng đông y trong điều trị bệnh trĩ để các bạn tham khảo.
Các phương pháp điều trị bệnh trĩ trong giai đoạn hiện nay
Theo thống kê của ngành y tế thì có đến 60% dân số Việt Nam mắc bệnh trĩ, một trong những tỉ lệ mắc cao nhất thế giới. Vậy đâu là nguyên nhân mà người Việt Nam mắc trĩ nhiều như vậy? Các phương pháp chữa bệnh trĩ hiện nay có ưu và nhược điểm gì?
1. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây ra bệnh trĩ
– Táo bón: Việc gắng sức khi rặn để tống phân ra có thể tạo sức ép lên các tĩnh mạch bị dãn và dẫn đến trĩ.
– Thói quen ăn uống không tốt như ăn ít chất xơ và rau quả, ăn nhiều gia vị (tiêu, ớt), uống nhiều rượu.
– Di truyền: Gia đình, dòng họ có nhiều người bị trĩ.
– Thai kỳ, sinh đẻ: Sức ép quá mạnh từ bào thai có thể làm trầm trọng thêm bệnh trĩ.
2. Các mức độ của trĩ
Trĩ có 3 mức độ:
– Nhẹ: Đi ngoài đau kèm ra máu, búi trĩ không sa.
– Vừa: Đi ngoài đau, kèm chảy máu và sa búi trĩ nhưng tự co lên được.
– Nặng: Búi trĩ sa thường xuyên, cần phải dùng tay đẩy vào. Bệnh nhân cảm thấy không thoải mái khi ngồi, thậm chí chảy máu.
3. Các phương pháp điều trị bệnh trĩ hiện nay, ưu và nhược điểm của từng phương pháp
3.1. Điều trị nội khoa:
– Vệ sinh tại chỗ tốt bằng phương pháp ngâm nước ấm 2 – 3 lần/ngày, mỗi lần 15 phút.
– Thuốc uống: gồm các thuốc có tác nhân trợ tĩnh mạch, dẫn xuất từ flavonoid. Cơ chế tác động của các thuốc này là làm gia tăng trương lực tĩnh mạch, bảo vệ vi tuần hoàn, giảm phù nề nhờ tác động kháng viêm tại chỗ, chống nhiễm trùng và chống tắc mạch.
– Thuốc tại chỗ: gồm các loại thuốc mỡ (pommade) và đạn dược (suppositoire) bao gồm các tác nhân kháng viêm, vô cảm tại chỗ và dẫn xuất trợ tĩnh mạch. 
Ưu điểm của phương pháp điều trị nội khoa: Tác dụng nhanh làm giảm hẳn triệu chứng, các thuốc điều trị rất dễ tìm trên thị trường
Nhược điểm: trị nội khoa chỉ có tác dụng chữa triệu chứng hay điều trị những đợt bị cấp như chảy máu, đau rát, sa… mà khó có thể điều trị khỏi bệnh được.
3.2. Điều trị bằng thủ thuật:
a-Chích xơ: Chích xơ được chỉ định trong trĩ độ 1 và trĩ độ 2
Là phương pháp dễ thực hiện, đơn giản, nhanh chóng và an toàn. Tuy nhiên, người thực hiện thủ thuật phải là bác sĩ có kinh nghiệm với kỹ thuật vững vàng mới cho kết quả tốt và tránh được các biến chứng. Mục đích chính của chích xơ là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc giúp giảm triệu chứng chảy máu.
Chích xơ được chỉ định trong trĩ độ 1 và trĩ độ 2,
Trong kỹ thuật chích xơ cần chú ý một số việc:
– Sử dụng đúng loại kim: Kim dài, có ngạnh chặn ở gần đầu kim để tránh xuyên thấu sâu, nếu có kim gập góc thì rất tốt, ống chích chuyên dùng. Thuốc chích xơ thường dùng hiện nay là dầu phenol và polidocanol.
-Vị trí chích là ở gốc búi trĩ, nằm trên đường lược và ở đáy búi trĩ. Khối lượng thuốc bơm khoảng 3-5 ml, bơm chậm, trong lúc bơm thuốc nếu thấy chỗ chích đổi màu trắng là chích vào lớp thượng bì, ngừng chích ngay vì sẽ gây biến chứng loét hoại tử sau chích. Vị trí chích thông thường là ở 4giờ , 7giờ và 11giờ.
-Biến chứng:
*Chảy máu chỗ chích: nếu phát hiện trong lúc chích dùng gạc đè vào, nếu không giảm dùng dụng cụ thắt trĩ bằng vòng cao su thắt vùng chảy máu.
*Chích vào tuyến tiền liệt: trong trường hợp chích quá sâu ở vị trí 11giờ-1giờ có thể gặp biến chứng bí tiểu, viêm mào tinh và tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt, rò hậu môn âm đạo…
b-Thắt trĩ bằng vòng cao su: Thắt trĩ bằng vòng cao su được chỉ định điều trị trĩ nội độ 1 và 2
Thắt trĩ bằng vòng cao su được chỉ định điều trị trĩ nội độ 1 và 2, một số tác giả áp dụng cho cả trĩ nội độ 3 nhưng kết quả giới hạn.
Thắt trĩ bằng vòng cao su đã được thực hiện từ thế kỷ 19 nhưng vì cột búi trĩ chung với cả da quanh hậu môn nên sau thắt rất đau, cho nên không được sử dụng rộng rải. Đến năm 1958 Blaisdell đã thành công với việc chỉ cột búi trĩ không có lẫn da và các mô chung quanh. Barron 1963 đã tạo ra dụng cụ để thắt trĩ với vòng cao su và sau đó với dụng cụ cải tiến của Mc Giveny đã đưa điều trị thắt trĩ với vòng cao su thành một phương pháp điều trị trĩ thành công và được lựa chọn hàng đầu trong các phương pháp điều trị bằng thủ thuật.
Nguyên tắc chính của thắt vòng cao su là giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, tạo mô sẹo xơ dính vào lớp cơ dưới lớp dưới niêm mạc, do đó sẽ cố định ống hậu môn đúng với nguyên tắc bảo tồn lớp đệm hậu môn.
c-Quang đông hồng ngoại: Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2
Phương thức sử dụng nhiệt điều trị trĩ đã được thực hiện hàng trăm năm nay. Mục tiêu của phương pháp làm đông là làm cho mô bị đông lại bởi tác động của sức nóng, tạo nên sẹo xơ làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và cố định trĩ vào ống hậu môn. Với tia Laser, dòng điện cao tần cũng có tác động làm đông như tia hồng ngoại, nhưng sự chính xác về độ sâu xuyên thấu của tác động làm đông của 2 phương pháp này không chính xác bằng tia hồng ngoại với máy quang đông. Sự xuyên thấu mô của tia hồng ngoại được định trước bằng cách điều chỉnh tốc độ của tia và độ hội tụ chính xác trên lớp mô này. Máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng cụ điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hòa nhịp tim.
Quang đông hồng ngoại được chỉ định với trĩ nội độ 1 và độ 2. Phương pháp này có ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả nhưng có nhược điểm là máy khá đắt và thường phải làm thủ thuật nhiều lần. 
3.3 Phẫu thuật cắt trĩ : Phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc, Phẫu thuật cắt từng búi trĩ, PT Longo, Khâu treo trĩ bằng tay, Khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler…
1-Nhóm phẫu thuật 1: gồm 2 nhóm phẫu thuật
a-Phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc:
Phẫu thuật Whitehead: nguyên tắc là cắt khoanh niêm mạc và lớp dưới niêm mạc có các búi tĩnh mạch trĩ, sau đó kéo niêm mạc từ trên xuống khâu với da ở hậu môn. Phương pháp này hiện nay hầu như không được sử dụng vì để lại nhiều biến chứng nặng nề như hẹp hậu môn, đại tiện mất tự chủ và rỉ dịch ở hậu môn. Nhưng vì tính chất triệt để của phẫu thuật nên nhiều tác giả vẫn sử dụng nguyên tắc của phẫu thuật này nhưng cải biên lại để làm giảm các biến chứng, ví dụ phẫu thuật Toupet.
b-Phẫu thuật cắt từng búi trĩ:
Nguyên tắc phẫu thuật này là cắt riêng biệt từng búi trĩ một, để lại ở giữa các búi trĩ các mảnh da-niêm mạc (cầu da niêm mạc). Nhóm phẫu thuật này gồm có PT Milligan Morgan (1937), PT Ferguson (1959), PT Parks (1965), PT BV Việt Đức (Nguyễn Đình Hối, 1966).
Nhóm phẫu thuật này gồm2 nhóm chính là:
– Cắt trĩ mở: PT Milligan Morgan , PT Nguyễn Đình Hối 
– Cắt trĩ kín: PT Ferguson.
Nhóm phẫu thuật này tránh được các biến chứng của nhóm phẫu thuật cắt khoanh niêm mạc da, nhưng vẫn còn nhược điểm là đau sau mổ, thời gian nằm viện dài, thời gian trở lại lao động muộn và không hiệu quả trong các trường hợp trĩ vòng.
2-Nhóm phẫu thuật 2:
Xuất phát từ các nhược điểm của nhóm phẫu thuật dưới cột Morgagni và các phát hiện mới về sinh bệnh học, từ thập niên 90, dựa trên nguyên tắc bảo tồn khối đệm hậu môn, giảm lưu lượng máu đến búi trĩ và thu nhỏ thể tích khối trĩ, một số phẫu thuật mới đã ra đời với nguyên tắc treo hậu môn như PT Longo, khâu treo trĩ bằng tay và nguyên tắc thu nhỏ thể tích khối trĩ như PT khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler.
a-PT Longo (1993) :Là phẫu thuật sử dụng máy khâu vòng để cắt một khoanh niêm mạc trên đường lược 2-3 cm và khâu vòng bằng máy bấm. Nguyên tắc của phẫu thuật này là cắt và khâu khoanh niêm mạc, nhằm mục đích giảm lưu lượng máu đến đám rối tĩnh mạch trĩ để thu nhỏ thể tích trĩ và treo được đệm hậu môn vào ống hậu môn. Phương pháp này được ưa chuộng vì không đau, thời gian nằm viện ngắn, trả bệnh nhân về lao động sớm, nhược điểm này là chi phí cao, chưa được đánh giá đầy đủ về hiệu quả do thời gian theo dõi còn ngắn. 
b-Khâu treo trĩ bằng tay:
Đây là phương pháp cải biên của phẫu thuật Longo ở các nước đang phát triển do giá thành cao của PT Longo . PT này đã được Ahmed M Hussein, Nguyễn Mạnh Nhâm, Nguyễn Trung Vinh, Nguyễn Trung Tín báo cáo ở các hội nghị. Phương pháp này cũng dựa trên nguyên tắc của phẫu thuật Longo là làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ để thu nhỏ thể tích khối trĩ và treo búi trĩ lên ống hậu môn bằng các mũi khâu tay khâu xếp nếp niêm mạc trên đường lược 2-3 cm. Phương pháp này chỉ mới được báo cáo sau năm 2001.
c-Khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler
Phương pháp này được Kazumasa Morinaga thực hiện lần đầu năm 1995, với một dụng cụ có tên là Moricorn, là một máy gồm một đầu dò siêu âm Doppler gắn liền trong một ống soi hậu môn, qua dụng cụ này tác giả dò tìm 6 động mạch, là những nhánh tận của động mạch trực tràng trên, và các nhánh động mạch này được khâu cột ở vị trí trên đường lược 2cm.
Nguyên tắc của phương pháp này là làm giảm lưu lượng máu đến các búi trĩ, chỉ áp dụng cho trĩ nội độ 2 và 3, ưu điểm của phương pháp này là không đau và bảo tồn được đệm hậu môn.
Cả ba phương pháp này không giải quyết được các trường hợp trĩ nội tắc mạch và các trường hợp có mẫu da thừa lớn.
Chỉ định điều trị:
-Trĩ có thể là bệnh, có thể là triệu chứng của một bệnh khác. Chỉ được phẫu thuật khi là trĩ bệnh . Một sai lầm thường mắc phải là cắt trĩ cho một bệnh nhân bị ung thư trực tràng. Có thể trĩ là triệu chứng của ung thư trực tràng, có thể là ung thư trực tràng xuất hiện trên một bệnh nhân có trĩ đã lâu. Vì vậy, trước khi mổ phải khẳng định không có các thương tổn thực thể khác ở vùng hậu môn trực tràng.
-Trĩ có thể điều trị khỏi bằng nội khoa hay các phương pháp vật lý. Vì vậy, phẫu thuật chỉ nên được xem là phương sách cuối cùng khi các phương pháp kể trên không hiệu quả, bởi vì phẫu thuật can thiệp vào giải phẫu học và sinh lý học bình thường và có thể kèm theo các di chứng nặng nề khó sửa chữa.
-Chỉ định mổ áp dụng cho trĩ nội độ 3, độ 4, trĩ có huyết khối, trĩ vòng sa và trĩ xuất huyết trầm trọng.
* Trĩ nội:
– Độ 1: chích xơ hoặc làm đông bằng nhiệt.
– Độ 2: làm đông bằng nhiệt, thắt bằng dây thun hay cắt trĩ.- Độ3: thắt bằng dây thun hay cắt trĩ.
– Độ 4: cắt trĩ.
– Trĩ sa nghẹt: dùng thuốc điều trị nội khoa và ngâm nước ấm cho đến khi búi trĩ hết phù nề, tại chỗ ổn định, sau đó mới mổ cắt trĩ.
* Trĩ ngoại: Trĩ ngoại không có chỉ định điều trị thủ thuật và phẫu thuật trừ khi có biến chứng nhiễm trùng, lở loét hay tắc mạch tạo thành những cục máu đông nằm trong các búi trĩ. Phẫu thuật điều trị tắc mạch trong cấp cứu là rạch lấy cục máu đông. Ngay sau mổ bệnh nhân cảm thấy dễ chịu và hết đau ngay.
Trên đây là các phương pháp điều trị được áp dụng trong quá khứ và hiện tại. Mỗi phương pháp có những ưu và nhược điểm khác nhau. Việc áp dụng phương pháp nào phụ thuộc vào mức độ bệnh và trình độ chuẩn đoán của Bác sĩ. Thông thường khi phát hiện biểu hiện của bệnh trĩ mọi người thường có những hành động sau đây:
I. Đến điều trị tại các bệnh viện công lập
Khi đến các bệnh viện công lập bệnh nhân có cảm giác yên tâm hơn vì yếu tố tin tưởng vào các Bác sĩ nhà nước vẫn đặt lên hàng đầu. Hiện nay các bệnh viện phần lớn áp dụng phương pháp cắt longo, đốt bằng tia laser. Những phương pháp này có tác dụng ngay tức thời nhưng lại không giải quyết được căn nguyên từ bên trong của bệnh dẫn đến tình trạng bệnh trĩ tái phát.
II. Điều trị tại các phòng khám đa khoa tư nhân
Sau khi điều trị tại các bệnh viện không khỏi người bệnh trở lên hoang mang lo lắng không biết đặt niềm tin vào đâu nữa. Trong khi đó các phòng khám đa khoa tư nhân quảng cáo tràn lan trên các phương tiện thông tin đại chúng với những cam kết như: chữa một lần là khỏi, không tái phát, nếu tái phát hoàn lại tiền, bảo hành 5 năm… Mặc dù có thể chưa tin tưởng nhưng cũng không còn cách nào khác vì bệnh trĩ vẫn ngày đêm hành hạ người bệnh có tâm lí thôi cứ chữa xem sao.
Ưu điểm: khi chữa ở phòng khám đa khoa tư nhân: Thái độ phục vụ nhiệt tình, sự trao đổi giữa bác sĩ và người bệnh diễn ra thường xuyên liên tục.
Nhược điểm: vì vẫn là các phương pháp cắt là phổ biến nên tỉ lệ tái phát cao. Chi phí điều trị cao có thể từ 5 đến 20 triệu. Với các phòng khám trang thiết bị không đảm bảo, trình độ bác sĩ hạn chế rất dễ dẫn đến tình trạng nhiễm trùng, với các loại thuốc uống có thể gây tác dụng phụ đặc biệt là hại gan và thận.
III. Dùng thực phẩm chức năng
Sau một loạt các phương pháp điều trị được quảng cáo là công nghệ cao mà bệnh trĩ vẫn không khỏi, tái phát nhanh người bệnh không còn mặn mà với điều trị bằng máy móc nữa mà chuyển sang sử dụng thực phẩm chức năng được quảng cáo nhan nhản trên các phương tiện truyền thông là an toàn và hiệu quả cao
Ưu điểm: dễ mua dễ sử dụng, sản phẩm là những viên nang dùng để uống hằng ngày.
Nhược điểm: Tình trạng bệnh gần như không thuyên giảm hoặc giảm không đáng kể, chi phí điều trị cao, thời gian điều trị kéo dài từ 3 đến 9 tháng.
Như vậy có thể nói với suy nghĩ có bệnh thì vái tứ phương người bệnh đã trải qua nhiều phương pháp chữa trị ai mách gì làm đấy dẫn đến tình trạng bệnh đã không khỏi lại ngày càng phức tạp hơn.
Trong chuyên đề này người viết xin giới thiệu bài thuốc chữa bệnh trĩ bằng đông y dựa trên công thức bí truyền của đồng bào dân tộc H’Mông vùng cao Tây Bắc (do đặc thù văn hóa uống rượu nên tỉ lệ mắc trĩ vùng này cao). Bài thuốc được các chuyên gia về y học cổ truyền đánh giá cao do tính hiệu quả trong điều trị và hậu điều trị. Tên bài thuốc: Bài thuốc bí truyền đặc trị bệnh trĩ của người H’Mông Tây Bắc.
Theo đông y, việc các búi trĩ hình thành là do khí huyết ứ trệ. Nghĩa là, máu từ tim theo động mạch đi đến nuôi các mô vùng hậu môn và tiếp tục theo tĩnh mạch lại trở về tim. Nhưng vì khí huyết ứ trệ máu ở vùng hậu môn theo tĩnh mạch về không hết sẽ dồn tích lại dần dần làm tĩnh mạch căng phồng lên và mỏng đi (khi đi cầu đôi khi phân cọ sát vào tĩnh làm vỡ tĩnh mạch gây nên hiện tượng đi ngoài ra máu), và đến khi sa xuống tạo thành búi trĩ. Nếu chỉ phẫu thuật cắt búi trĩ thì mới chỉ giải quyết được phần gọn và không sớm thì muộn, một thời gian sau bệnh trĩ sẽ lại tái phát. Ngược lại, bài thuốc bí truyền đặc trị bệnh trĩ của người H’Mông Tây Bắc lại giải quyết triệt để vấn đề này và điều trị từ nguyên nhân gây nên bệnh.
Bài thuốc bí truyền đặc trị bệnh trĩ của người H’Mông Tây Bắc
1. Thuốc uống
Thành phần: Nghệ, tam thất, địa du, đương quy, thăng ma, sài hồ và một số thảo dược ở vùng núi Tây Bắc.
Công dụng: Cầm máu, giảm đau, chống viêm, thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, hoạt huyết, hoạt trường, điều huyết, thông kinh. Giúp bảo vệ và tăng sức bền của thành tĩnh mạch, tăng cường sức khỏe tĩnh mạch và đường tiêu hóa; nhuận tràng thông đại tiện, chống táo bón.
Điều trị và giúp phòng ngừa bệnh trĩ, cải thiện các triệu chứng của bệnh trĩ (chảy máu, sa búi trĩ, đau rát, ngứa…) và các biến chứng của bệnh trĩ (sa trực tràng, viêm nứt hậu môn…); kháng viêm, kháng khuẩn mạnh; điều trị và phòng ngừa táo bón.
Bài thuốc đặc biệt tốt cho phụ nữ sau sinh, người bị bệnh đường ruột, đau dạ dày, đại tràng.
Công dụng của từng thành phần:
Nghệ: Nghệ có vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ và giảm đau. Uất kim (củ con của cây nghệ) vị cay ngọt, tính mát, làm mát máu, an thần, tan máu ứ, giảm đau. Nghệ còn có tác dụng khử trùng, ức chế nhiều loài vi khuẩn và nấm gây bệnh trong đó có trực khuẩn lao, các trực khuẩn lỵ, phế cầu khuẩn, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn coli, nấm candida albicans. 
Ngoài ra, nghệ còn có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư, và có tác dụng làm đẹp như làm sáng da, liền sẹo…
Tam thất: Tam thất có vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào Kinh, Can, Vị, Tâm, Phế, Đại tràng. Có tác dụng hoá ứ, cầm máu (chữa thổ huyết, băng huyết, rong huyết, sau đẻ máu hôi không ra hết, lỵ ra máu), tiêu thũng, giảm đau, bổ khí huyết, đau tức ngực, u bướu, huyết ứ, bế kinh, thống kinh, sản hậu huyết hư gây đau bụng, ung nhọt, sưng do chấn thương, thiếu máu nặng, mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, ngủ ít. Kinh nghiệm dân gian Tam thất có thể chữa được một số trường hợp ung thư (ung thư vú, ung thư máu…).
Địa du: Được dùng cả trong Đông y và Tây y. Tây y dùng để cầm máu, giúp sự tiêu hoá, rửa các vết loét. Đông y dùng để cầm máu trong các trường hợp: nôn ra máu, chảy máu cam, trị tiêu ra máu, kiết lỵ ra máu, rong kinh do huyết nhiệt, trĩ ra máu, bỏng do nóng…
Đương quy: Tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận táo, hoạt trường, điều huyết, thông kinh. Ngoài ra, có tác dụng chữa bệnh kinh nguyệt không điều, đau bụng khi thấy kinh, người thiếu máu, tay chân đau nhức và lạnh.
Thăng ma: Tác dụng thăng khí (làm lưu thông khí huyết) chữa các chứng sa giáng (sa trĩ, sa dạ dày, dạ con, trực tràng…), nhức đầu nóng rét, đau họng, mụn lở trong miệng, tả lỵ lâu ngày, ban sởi không mọc hết, hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm, chống co giật, giải độc.
Sài hồ: vị đắng, tính mát; Có tác dụng tán nhiệt giải biểu, làm thông lợi gan, giảm đau, thăng cử dương khí và cắt cơn sốt rét. Dùng cho trường hợp sốt nóng, sốt rét, cảm cúm (hàn nhiệt vãng lai), đau vùng ngực bụng, kinh nguyệt không đều, trung khí hạ hãm (các loại thoát vị, sa dạ dày, ruột, tử cung, sổ bụng), viêm gan mạn tính, sốt rét cơn.
2. Thuốc xông
Công dụng: Thuốc xông có tác dụng đào thải cặn bã, thúc đẩy thăng khí (lưu thông khí huyết) giúp máu lưu thông không bị ứ trệ ở hậu môn, cải thiện vòng tuần hoàn đưa máu đến nuôi dưỡng các mô, cơ tĩnh mạch giúp tĩnh mạch bền chặt và làm tăng tính đàn hồi của thành mạch, giúp búi trĩ co dần lên, đồng thời làm tiêu sưng giảm đau.
Ưu điểm của bài thuốc: 
● Điều trị triệt để bệnh trĩ (trị bệnh tận gốc), hiệu quả lâu dài.
● Điều trị được tất cả các dạng trĩ (nội, ngoại, hỗn hợp, trĩ vòng, rò hậu môn).
● Thời gian điều trị bệnh ngắn tùy vào tình trạng của bệnh
● Chi phí thấp
● Bệnh nhân không bị đau đớn
● Không gây tổn thất đến cấu trúc hậu môn
● Bệnh nhân không bị mất máu
● An toàn nhất cho bệnh nhân, không gây nhiễm trùng, biến chứng (như phẫu thuật) và không gây phản ứng phụ.
● Với thành phần là các thảo dược tự nhiên có tính mát rất tốt cho cơ thể.
● Bài thuốc được bào chế dưới dạng bột, không phải sắc nên rất tiện lợi cho việc sử dụng.
Trên đây là những đánh giá căn bản của người viết với tư cách nghiên cứu lâu năm về thực trạng bệnh trĩ tại Việt Nam. Việc điều trị khi bị bệnh là bất khả kháng. Để tránh mắc bệnh khỏi phải mất công chạy chữa tốn kém chúng ta nên thực hiện các cách sau đây:
● Chú ý vệ sinh sạch sẽ hậu môn.
● Chế độ ăn uống nhiều chất xơ, rau quả. Tránh các chất kích thích như cà phê, nước chè, rượu, và các gia vị cay, nóng như ớt, hạt tiêu… Nếu bị táo bón nên điều trị ngay bằng cách ăn nhiều rau xanh, khoai lang, chuối… đều là những thực phẩm giúp đẩy lùi chứng táo bón.
● Uống nhiều nước.
● Tập thói quen đi ngoài đều đặn hàng ngày vào một giờ nhất định.
● Tập thót hậu môn từ 30-50 lần mỗi sáng ngủ dậy và trước khi đi ngủ.
● Không ngồi lâu một chỗ, nên vận động nhẹ nhàng.
● Vận động thể lực: nên tập thể dục và chơi các môn thể thao nhẹ như bơi lội, đi bộ…
● Điều trị các bệnh mãn tính hiện có như viêm phế quản, dãn phế quản, bệnh lỵ …

Sau khi bài viết được đăng, đã có rất nhiều độc giả gửi thư đến Ban biên tập hỏi về bài thuốc bí truyền đặc trị bệnh trĩ của người H’Mông Tây Bắc. Chúng tôi đã liên hệ và được LY Phúc Long cung cấp địa chỉ bài thuốc tại Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Thuốc Dân tộc Hà Nội. Đ/c: Cơ sở I: Tầng 5, Tòa nhà Viettinbank – số 91 Nguyễn Xiển – Thanh Xuân – Hà Nội. ĐT: (04)63299215 – 0962448569. Website: www.thuocdantoc.org. Email: info@thuocdantoc.org

Uống nhiều nước giúp phân mềm và dễ đại tiện. Ăn nhiều rau cải, trái cây sẽ giúp phân mềm, khối phân tăng thêm nhờ thế bệnh nhân bớt phải rặn và gián tiếp tránh được bệnh trĩ. Bệnh nhân cần vận động nhẹ nhàng để tránh tăng áp lực trong tĩnh mạch nhất là sau khi ngồi hoặc đứng lâu. Vận động cũng giúp tránh táo bón và giảm trọng lượng nếu bệnh nhân béo phì. Tránh đứng hoặc ngồi lâu.

Theo dõi tác giả